Kiểm soát glucose máu là gì? Các công bố khoa học về Kiểm soát glucose máu

Kiểm soát glucose máu là quá trình duy trì mức glucose trong máu ở mức ổn định để đảm bảo hoạt động chính xác của cơ thể. Glucose là loại đường đơn giản là nguồ...

Kiểm soát glucose máu là quá trình duy trì mức glucose trong máu ở mức ổn định để đảm bảo hoạt động chính xác của cơ thể. Glucose là loại đường đơn giản là nguồn năng lượng chính cho cơ bắp và các tế bào của cơ thể. Quá nhiều glucose trong máu (hyperglycemia) có thể làm tổn thương các cơ quan và gây ra các vấn đề sức khỏe, chẳng hạn như tiểu đường, trong khi mức glucose thấp (hypoglycemia) có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe, đặc biệt là cho não.

Quá trình kiểm soát glucose máu được điều chỉnh bởi các hormone, như insulin do tuyến tụy sản xuất, và glucagon do tuyến tụy sản xuất. Khi mức glucose máu tăng lên, tuyến tụy sẽ tiết insulin để khuyến khích việc hấp thụ và sử dụng glucose trong các tế bào. Nếu mức glucose máu thấp, tuyến tụy sẽ tiết glucagon để đẩy mạnh quá trình phân giải glycogen và chuyển đổi lại thành glucose.

Hệ thống kiểm soát glucose máu cũng được ảnh hưởng bởi chế độ ăn uống, tập luyện và sử dụng các loại thuốc điều trị tiểu đường. Để duy trì mức glucose máu trong khoảng lý tưởng, người ta nên ăn một chế độ ăn uống cân đối, vận động thường xuyên và tuân thủ đúng biểu đồ dùng thuốc được chỉ định.
Dưới đây là chi tiết hơn về quá trình kiểm soát glucose máu:

1. Insulin: Hormone insulin được tiết ra bởi tuyến tụy khi mức glucose máu tăng. Động lực chính để sản xuất insulin là sự tăng của mức glucose máu sau khi ăn. Insulin giúp tế bào trong cơ thể hấp thụ glucose từ máu vào bên trong và sử dụng nó làm năng lượng hoặc lưu trữ dự trữ. Insulin còn đẩy mạnh quá trình chuyển đổi glucose thành glycogen, một loại glucide dự trữ, và lưu trữ nó trong gan và cơ bắp.

2. Glucagon: Ngược lại với insulin, glucagon là hormone được tiết ra bởi tuyến tụy khi mức glucose máu thấp. Glucagon đóng vai trò thúc đẩy quá trình phân giải glycogen trong gan và cơ bắp, chuyển đổi lại thành glucose và giải phóng nó vào máu. Ngoài ra, glucagon còn kích thích quá trình gluconeogenesis - tức là tổng hợp glucose từ các nguồn khác như amino acid và glycerol - để tăng mức glucose máu.

3. Ảnh hưởng của chế độ ăn uống: Lượng glucose trong máu phụ thuộc vào lượng carbohydrate trong chế độ ăn uống. Thực phẩm giàu carbohydrate, như đường, tinh bột và các loại ngũ cốc, khi tiêu thụ sẽ làm tăng mức glucose máu. Do đó, việc điều chỉnh chế độ ăn uống là rất quan trọng trong việc kiểm soát glucose máu. Một chế độ ăn uống cân đối và giàu chất xơ có thể giúp duy trì mức glucose máu ổn định.

4. Vận động: Hoạt động thể chất có thể làm giảm mức glucose máu. Khi cơ thể được sử dụng năng lượng trong quá trình vận động, đường glucose sẽ được sử dụng làm nguồn năng lượng chính. Điều này giúp làm giảm mức glucose máu và đóng góp vào kiểm soát glucose máu.

5. Thuốc điều trị tiểu đường: Đối với những người bị tiểu đường, kiểm soát glucose máu có thể được thực hiện thông qua việc sử dụng thuốc điều trị như insulin, thuốc tiếp thu glucose hoặc thuốc ức chế sự phân giải glycogen. Thuốc được sử dụng sẽ phụ thuộc vào loại và mức độ tiểu đường của người bệnh.

Trong tổng hợp, kiểm soát glucose máu là quá trình cân bằng giữa insulin và glucagon, điều chỉnh bởi chế độ ăn uống, vận động và thuốc điều trị. Mục tiêu cuối cùng là duy trì mức glucose máu ổn định để đảm bảo sự hoạt động bình thường của các cơ quan và hệ thống trong cơ thể.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "kiểm soát glucose máu":

Tiểu Đường Ở Mỹ: Dịch Tễ Học Và Phạm Vi Của Vấn Đề Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 21 Số Supplement_3 - Trang C11-C14 - 1998

Các nghiên cứu dịch tễ học được thực hiện trong 40 năm qua đã chỉ ra rằng tỷ lệ tiểu đường đã được chẩn đoán tăng mạnh tại Hoa Kỳ và một tỷ lệ đáng kể của dân số có tiểu đường chưa được chẩn đoán, glucose lúc đói bị rối loạn và dung nạp glucose bị rối loạn. Bệnh tiểu đường phổ biến nhất ở các nhóm dân tộc thiểu số, chẳng hạn như người Mỹ gốc Phi, người bản địa Mỹ và người Mỹ gốc Mễ. Sự gia tăng tỷ lệ mắc tiểu đường đã dẫn đến sự gia tăng của các biến chứng vi mạch như mù lòa, bệnh thận giai đoạn cuối và cắt cụt chi dưới. Kiểm soát glucose máu kém góp phần vào tỷ lệ cao những biến chứng này, tuy nhiên, các nghiên cứu dựa vào cộng đồng về bệnh nhân tiểu đường cho thấy nồng độ glucose huyết tương lúc đói trung bình của họ thường >180 mg/dl so với 100 mg/dl đối với những người không bị tiểu đường. Ở những người mắc tiểu đường, các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch bao gồm glucose huyết tương lúc đói tăng, huyết áp, cholesterol toàn phần, triglycerides và béo phì phần nào giải thích cho tỷ lệ cao của cái chết (60–70%) do bệnh tim mạch gây ra ở những người mắc tiểu đường. Quản lý tiểu đường tích cực hơn và kiểm soát glucose máu tốt hơn có thể giảm thiểu các biến chứng lâu dài của bệnh và được kỳ vọng sẽ giảm thiểu tỷ lệ bệnh tật, tỷ lệ tử vong và chi phí liên quan đến bệnh tiểu đường.

#tiểu đường #dịch tễ học #biến chứng vi mạch #quản lý tiểu đường #kiểm soát glucose máu
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT GLUCOSE MÁU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN ĐTĐ TYPE 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y THÁI BÌNH NĂM 2019
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát thực trạng kiểm soát glucose máu (KSGM) và một số yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đại học Y Thái Bình năm 2019. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang với 336 bệnh nhân – cỡ mẫu tính theo công thức nghiên cứu mô tả. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân đạt mục tiêu glucose máu lúc đói: 40,7%. Tỷ lệ bệnh nhân đạt mục tiêu HbA1c: 44,3%. Có mối liên quan giữa kiểm soát glucose máu với chỉ số BMI (OR=2,1; 1,2-3,2), sự tuân thủ chế độ ăn (OR=2,9; 1,7-4,9), chế độ luyện tập (OR=1,9; 1,2-3,2), chế độ dùng thuốc (OR=3,3; 1,6-6,8). Kết luận: Tỷ lệ kiểm soát được chỉ số đường huyết lúc đói còn khá thấp; cần thực hiện tốt các biện pháp kiểm soát cân nặng, tuân thủ chế độ ăn uống tập luyện và dùng thuốc để có thể cải thiện tình trạng này.
#Đái tháo đường typ 2 #Kiểm soát Glucose máu #Thái Bình
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT GLUCOSE MÁU VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ Ở NGƯỜI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 1A - 2023
Nghiên cứu được tiến hành trên 390 bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo đường (ĐTĐ) type 2 đang điều trị ngoại trú tại Bệnh Viện Tuệ Tĩnh. Trong đó có 225 bệnh nhân là nữ (chiếm tỷ lệ 57,69%) và 165 bệnh nhân là nam (chiếm tỷ lệ 42,31%). Tuổi trung bình 63,01±10,44 (từ 30 đến 90 tuổi), có trình độ học vấn từ tiểu học đến đại học và sau đại học, không có ai mù chữ. Kết quả kiểm soát đường máu dựa trên tiêu chuẩn của ADA-2018 có 58,21 % đạt yêu cầu (dựa theo tiêu chí Glucose máu) và 50,26% đạt yêu cầu (dựa theo tiêu chí HbA1C). TC đạt yêu cầu chiếm tỷ lệ 75,13%, TG là  47,44%. Mức độ kiểm soát HA tốt là 331 bệnh nhân (chiếm 84,87%), HA chưa đạt yêu câu là 15,13%.
#đái tháo đường #đường máu #điều trị
KẾT QUẢ KIỂM SOÁT GLUCOSE MÁU Ở TRẺ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Kiểm soát glucose máu (KSGM) ở mức tối ưu là mục tiêu cơ bản để điều trị và quản lý bệnh đái tháo đường. KSGM tốt cho trẻ mắc đái tháo đường sơ sinh (ĐTĐSS) giúp trẻ ngăn ngừa các biến chứng. Mục tiêu: Nhận xét kết quả KSGM ở trẻ ĐTĐSS tại bệnh viện Nhi Trung ương. Phương pháp: mô tả một loạt ca bệnh. Kết quả: 94,1% bệnh nhân đột biến ABCC8/KCNJ11 đạt mức KSGM tốt khi điều trị bằng SU, 1 bệnh nhân chưa phát hiện gen đột biến được điều trị với SU có mức KSGM ban đầu tốt, khi chuyển đổi sang insulin có mức glucose máu tốt nhưng HbA1c kém. Khi điều trị bằng insulin có 37,5% (dựa vào HbA1c), 25% (dựa vào glucose máu) bệnh nhân có đột biến gen khác đạt mục tiêu KSGM. 2/7 bệnh nhân không có đột biến gen đã được dừng thuốc nhưng phải tái sử dụng insulin trong những đợt nhiễm trùng cấp. 100% bệnh nhân có bất thường 6q24 được KSGM tốt trước khi dừng thuốc, chưa có bệnh nhân nào tái phát. Không bệnh nhân nào hạ glucose máu nặng, hạ glucose máu không triệu chứng gặp chủ yếu ở nhóm điều trị bằng insulin.
#đái tháo đường sơ sinh #kiểm soát glucose máu #insulin #sulfonylurea
TÌNH TRẠNG KIỂM SOÁT GLUCOSE MÁU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 CÓ MỨC LỌC CẦU THẬN < 60 ML/PHÚT/1,73M2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá tình trạng kiểm soát Glucose máu ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 có mức lọc cầu thận < 60ml/phút/1,73m2. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngangđược tiến hành trên 50 bệnh nhân đái tháo đường typ2 khám ngoại trú tại Bệnh viện Hữu Nghị từ tháng 1/2022 đến tháng 6/2022 có mức lọc cầu thận < 60 ml/phút/1,73m2sau khi loại bỏ các bệnh nhân thiếu máu, có nhiễm trùng cấp tính, biến chứng cấp tính, đợt cấp của suy thận mạn, bệnh nhân chạy thận nhân tạo.Tiêu chuẩn đánh giá Glucose máu đói, HbA1C theo hướng dẫn của ADA-2021.Kết quả:Tuổi trung bình:76,94 ± 6,04; tỷ lệ nam chiếm 84%, nữ chiếm 16%.Tỷ lệ HbA1C của nhóm nghiên cứu đạt mục tiêu ( HbA1C≤ 7%) và chấp nhận được (HbA1C từ 7- ≤8%) tương ứng 38% và 24%. Tỷ lệ kiểm soát HbA1C kém (>8%) của nhóm CKD giai đoạn 3a; giai đoạn 3b tương ứng là 37,5%; 40%.Tỷ lệ Glucose máu đói của nhóm nghiên cứu đạt mục tiêu (GM đói 4.4-7.2 mmol/l) và chấp nhận được (GM đói 7,2-≤ 8,3 mmol/l) tương ứng 14% và 28%.Tỷ lệ kiểm soát HbA1C đạt mục tiêu; kém của nhóm mắc bệnh ≤ 10 năm và > 10 năm tương ứng là (60% và 23,3%); (20% và 50%)khác biệt có ý nghĩa thống kê (p= 0.026). Giá trị trung bình của HbA1C; Glucose máu đói của 2 nhóm CKD giai đoạn 3a và CKD giai đoạn 3b khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p tương ứng 0,52; 0,66). Kết luận: Tỷ lệ kiểm soát HbA1C đạt mục tiêu; kém của nhóm mắc bệnh ≤ 10 năm và > 10 năm tương ứng là (60% và 23,3%); (20% và 50%) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p= 0.026). Tỷ lệ kiểm soát HbA1C ở bệnh nhân đái tháo đường typ2 có mức lọc cầu thận< 60 ml/phút/1,73m2 liên quan có ý nghĩa thống kê với thời gian mắc bệnh.
#Đái tháo đường typ2 #mức lọc cầu thận < 60 ml/phút/1 #73m2
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA DINH DƯỠNG CHUYÊN BIỆT LÊN GLUCOSE MÁU SAU ĂN Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 538 Số 3 - Trang - 2024
Mục tiêu: bước đầu đánh giá ảnh hưởng của dinh dưỡng chuyên biệt lên glucose máu sau ăn ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả, có can thiệp dinh dưỡng ở 92 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Quân y 103. Biến cố chính là nồng độ glucose máu 30, 60 và 120 phút sau sử dụng sản phẩm dinh dưỡng chuyên biệt và bánh mì dinh dưỡng và sự gia tăng glucose máu. Kết quả: glucose máu sau ăn 30 phút và tỉ lệ kiểm soát glucose máu sau ăn tại các thời điểm 30 phút và 120 phút sau ăn khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa nhóm dinh dưỡng chuyên biệt (DDCB) và bánh mì dinh dưỡng (BMDD). Tuy nhiên, nồng độ glucose máu ở các thời điểm 60 phút và 120 phút của nhóm DDCB thấp hơn BMDD có ý nghĩa thống kê (ở 60 phút 11,14 mmol/L so với 12,69 mmol/L và ở 120 phút 9,26 mmol/L so với 11,06 mmol/L, p < 0,05). Tỷ lệ đạt mục tiêu kiểm soát glucose máu sau ăn ở thời điểm 60 phút cao hơn có ý nghĩa thống kê giữa nhóm dinh dưỡng chuyên biệt so với bánh mì dinh dưỡng (p < 0,005). Bệnh nhân sử dụng dinh dưỡng chuyên biệt có sự gia tăng glucose máu sau ăn 30 phút, 60 phút và 120 phút thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm sử dụng bánh mì dinh dưỡng (p < 0,05). Kết luận: Ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2, dinh dưỡng chuyên biệt góp phần kiểm soát glucose máu trong 120 phút sau sử dụng tốt hơn so với bánh dinh dưỡng
#Đái tháo đường típ 2 #dinh dưỡng chuyên biệt #kiểm soát glucose máu.
MỐI LIÊN QUAN NỒNG ĐỘ PROTEIN PHẢN ỨNG C VỚI XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH CẢNH VÀ KIỂM SOÁT GLUCOSE MÁU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Phân tích mối liên quan nồng độ CRP huyết tương với xơ vữa động mạch cảnh và mức độ kiểm soát glucose máu ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 122 bệnh nhân ĐTĐ típ 2. Tất cả các bệnh nhân được định lượng nồng độ CRP huyết tương theo phương pháp đo độ đục phản ứng miễn dịch, siêu âm Doppler động mạch cảnh và đánh giá mức độ kiểm soát glucose máu theo nồng độ glucose máu lúc đói. Kết quả: Có mối tương quan thuận, mức độ vừa giữa nồng độ CRP và độ dày lớp nội trung mạc ĐM cảnh ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2, r= 0,622, p< 0,001. Nhóm bệnh nhân có xơ vữa ĐM cảnh có nguy cơ tăng nồng độ CRP huyết tương cao gấp 40,33 lần so với nhóm không cơ xơ vữa, p< 0,001. Bệnh nhân kiểm soát glucose máu kém có nguy cơ tăng CRP cao gấp 2,13 lần so với nhóm BN kiểm soát glucose máu mức tốt và chấp nhận được, p< 0,05. Kết luận: Tăng nồng độ CRP huyết tương có mối liên quan với xơ vữa động mạch và mức độ kiểm soát glucose máu kém ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2.
#Đái tháo đường típ 2 #Protein phản ứng C #Xơ vữa động mạch #Siêu âm Doppler động mạch cảnh
ĐÁNH GIÁ MỐI LIÊN QUAN CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 VỚI BỆNH QUANH RĂNG TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103
Tạp chí Răng Hàm Mặt Việt Nam - Số 1 - Trang 28-34 - 2024
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa kiểm soát glucose máu, mức độ vệ sinh răng miệng (VSRM) và thời gian phát hiện (TGPH) bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) typ 2 với tình trạng bệnh quanh răng (QR) tại Bệnh viện Quân y 103. Đối tượng và phương pháp: Gồm 50 BN với chẩn đoán xác định ĐTĐ typ 2 theo ADA 2017 c bệnh QR theo Guidelines AAP 2014. Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích. Kết quả: Nam giới là chủ yếu với 64%; tuổi trung bình 62,84±8,41 (năm); trung bình OHI- là 3,02±1,04; thời gian phát hiện ĐTĐ trung bình 7,59±1,38 (năm), trung bình chỉ số HbA1 7,79±0,67 (%). Viêm lợi chiếm 6%, viêm QR chiếm đại đa số với 94%, trong đó 70% là viêm Ql nặng. Nhóm bệnh nhân có HbA1c > 7,5% có nguy cơ bị viêm QR nặng cao hơn nhóm bệnh nhà có HbA1c <7,5% với OR=4,36; 95%c/: 1,20-15,84 và p<0,05. Nhóm bệnh nhân có VSRM kén có nguy cơ bị viêm QR mức độ nặng cao hơn nhóm bệnh nhân có VSRM vừa và tốt với OR-7,72 95%CI: 1,51-39,42 và p<0,01. Trong đó chỉ số mất bám dính lâm sàng (MBD) liên quan chặt chi với thời gian phát hiện ĐTĐ typ 2 với hệ số tương quan r=0,89 với p<0,0001. Kết luận: Kiểm soát glucose máu kém, VSRM kém và thời gian phát hiện ĐTĐ càng dài thì min độ bệnh QR càng nặng.
#Đái tháo đường #bệnh quanh răng #Kiểm soát glucose máu
Some factors associated with sarcopenia among diabetic older patients
Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan với mất cơ ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 cao tuổi. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương trên bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi. Mức độ kiểm soát đái tháo đường được đánh giá sử dụng chỉ số glucose máu và HbA1c. Mất cơ được chẩn đoán bằng tiêu chuẩn của FNIH. Các thành tố để chẩn đoán mất cơ bao gồm khối lượng cơ hiệu chỉnh theo chỉ số khối cơ thể, cơ lực tay và tốc độ đi bộ. Kết quả: Bệnh nhân đái tháo đường trên 70 tuổi có liên quan tới tăng 2,22 lần nguy cơ mắc mất cơ hơn nhóm 60 - 69 tuổi. Nam giới có liên quan đến nguy cơ mất cơ cao hơn nữ giới (OR: 7,30). Bệnh nhân có thể trạng gày (BMI < 18,5kg/m2) có liên quan đến nguy cơ mất cơ hơn bệnh nhân có thể trạng bình thường (BMI: 18,5 - 22,9kg/m2) (OR = 2,47). Bệnh nhân kiểm soát đường máu kém (glucose máu đói > 10,0mmol/l) hoặc kiểm soát đường máu chấp nhận được (glucose máu: 7,2 - 10,0mmol/l) có liên quan đến nguy cơ mắc mất cơ hơn bệnh nhân kiểm soát đường máu tốt (với tỉ suất chênh tương ứng là OR = 5,78, 95%CI = 2,26 - 14,77 và OR = 2,55, 95%CI = 1,15 - 5,61). Bệnh nhân có HbA1c > 7,5% có liên quan đến nguy cơ mất cơ cao hơn bệnh nhân có HbA1c ≤ 7,5% (OR = 2,30; 95%CI = 1,32 - 4,00). Kết luận: Tỷ lệ mất cơ ở bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi là 51,5%. Các yếu tố liên quan đến tăng nguy cơ mắc mất cơ ở bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi bao gồm tuổi cao trên 70 tuổi, giới nam, BMI thấp dưới 18,5kg/m2, và kiểm soát glucose máu lúc đói kém (> 10,0mmol/l) và HbA1c kém (> 7,5%).  
#Đái tháo đường #mất cơ #kiểm soát glucose máu
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIỂM SOÁT GLUCOSE MÁU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI KHOA NỘI TỔNG HỢP - BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2017-2020
Đặt vấn đề: Mục tiêu điều trị bệnh đái tháo đường là kiểm soát tốt glucose máu nếu không sẽ dẫn đến nhiều kết cục bất lợi trên lâm sàng. Việc tìm hiểu các yếu tố liên quan đến kiểm soát glucose máu trên bệnh nhân mắc đái tháo đường type 1 và type 2 là vấn đề cần được quan tâm. Mục tiêu nghiên cứu: 1. Xác định tỷ lệ kiểm soát glucose máu ở bệnh nhân mắc đái tháo đường được điều trị nội trú tại Khoa Nội tổng hợp. 2. Khảo sát các yếu tố liên quan đến kiểm soát glucose máu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 390 hồ sơ bệnh án của bệnh nhân đái tháo đường type 1 và type 2 điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng hợp-Bệnh viện trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2017-2020. Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 26.0. Kết quả: Tỷ lệ kiểm soát tốt glucose máu là 67,4%. Có 3 yếu tố liên quan đến kiểm soát glucose máu có ý nghĩa thống kê: HbA1c trước nhập viện ≤ 7 (OR=9,40, 95%CI=2,19-40,31, p=0,003), bệnh nhân có > 3 bệnh mắc kèm (OR=1,84, 95%CI=1,07-3,18, p=0,028) và có sử dụng corticoid (OR=3,13, 95%CI=2,04-5,38, p<0,001). Kết luận: Một số yếu tố như HbA1c trước nhập viện, số bệnh mắc kèm và sử dụng corticoid có liên quan đến kiểm soát glucose máu không tốt.
#Đái tháo đường #kiểm soát glucose máu #insulin
Tổng số: 15   
  • 1
  • 2